Sự thật hải dương học: Hoàng Sa - Việt Nam! - Kỳ cuối: Giúp dân định cư trên đảo
Cùng
với việc tuyển dụng các viên chức làm việc cho trạm hải đăng, trạm điện
báo vô tuyến (TSF) và trạm khí tượng thường trú trên đảo Hoàng Sa, mục
tiêu mà nhà cầm quyền Đông Dương hướng đến là đưa một nhóm người địa
phương sống bằng nghề đánh cá và trồng trọt ra định cư ở vùng đất mới
này.
![]() |
Đào giếng nước ngọt trên quần đảo Hoàng Sa, năm 1938 - Ảnh tư liệu (HỮU KHÁ chụp lại) |
Quy hoạch khu dân cư
Theo
ông Raoul Sérène, ngày 13-10-1937, từ Đà Nẵng, toàn quyền Đông Dương đã
gửi cho các nhà khoa học một bức điện tín đề cập đến các vấn đề nhằm
đảm bảo điều kiện định cư cho người dân địa phương trên đảo Hoàng Sa.
Báo cáo của ông Bellec - bác sĩ tàu La Marne - khẳng định môi trường
sống ở đảo Hoàng Sa cũng như các đảo khác trong quần đảo rất trong lành,
đảm bảo cho người dân cư trú lâu dài.
“Ghi
chép về các khả năng tổ chức cuộc sống ở quần đảo Hoàng Sa” (1937) do
ông R.Sérène soạn thảo cho thấy các nhà khoa học đã khảo sát đầy đủ về
các vấn đề: quy hoạch khu dân cư, khu định cư cho ngư dân, lối vào đảo
và các con đường đi lại trên đảo... Theo đó, địa điểm cư trú trên đảo
cũng được xác định phải có khoảng cách phù hợp với cầu cảng, sân bay,
thuận lợi cho việc tiếp nhiên liệu thường kỳ. Về quy hoạch dân cư, các
nhà khoa học đã vẽ một bình đồ tổng thể tỉ lệ 1/4.000 (có đánh dấu các
vị trí rạn san hô quan trọng có thể bảo vệ chống lại gió mùa đông) và
một bản đồ mặt bằng trên đảo có tỉ lệ gấp đôi, để phân tích chi tiết và
đánh dấu các vị trí nơi dự kiến cho người dân cư trú.
Trong
quy hoạch này có khu định cư riêng cho ngư dân bởi nguồn thực phẩm
chính cho Hoàng Sa là các sản phẩm từ biển. Vì vậy, những người định cư
trên đảo Hoàng Sa phải là nhóm cộng đồng người Việt sống bằng nghề đi
biển. Cần cung cấp cho mỗi gia đình một đến hai thuyền mành và xây dựng
cho họ những căn nhà kiên cố cùng với bến neo tàu. Các nhà khảo sát đã
lập bản đồ đánh dấu vị trí làng sinh sống của những người đi biển và gia
đình họ.
Về
lối vào đảo và những con đường đi lại trên đảo, kết quả khảo sát cho
thấy có hai luồng tự nhiên trong đầm để thuyền có thể cập vào đảo: một ở
bờ nam và một ở bờ đông. Luồng vào bờ nam có ngọn hải đăng, rất nhiều
thuyền đi lại nhưng nước thấp khi triều xuống (có thể cải tạo, ít tốn
kém). Luồng ở bờ đông tránh được những con sóng đến từ phía nam, luồng
lạch sâu và đã được cải tạo, có bến tàu rộng rãi xây bằng ximăng, tàu có
thể cập được các mùa trong năm. Trên đảo có hai đường mòn hai bên đầy
bụi rậm rộng khoảng 3-4 m dẫn đến hai luồng lạch nêu trên, cần thiết sẽ
mở đường rộng ra.
![]() |
Vợ của các công chức trên quần đảo Hoàng Sa, năm 1940 - Ảnh tư liệu (HỮU KHÁ chụp lại) |
Đảm bảo điều kiện sinh sống
Qua
khảo sát, các nhà khoa học đã đề xuất các kiểu nhà, việc cung cấp vật
liệu làm nhà, cung cấp nước ngọt và nhiên liệu, các nguồn thực phẩm bản
địa và biện pháp phòng tránh bão. Các kiểu nhà, kho, xưởng phải chịu
được sự công phá của các cơn bão thường kỳ quét qua đảo. Sẽ xây các kiểu
nhà trệt, tuyệt đối không có lầu, chỉ có mái hiên trước, tường đá có độ
dày phù hợp để quét ximăng. Mái nhà bằng gỗ hoặc kim loại, nền nhà đúc
bằng bêtông và lát gạch vuông trên lớp nhựa đường. Tất cả cửa ra vào và
cửa sổ phải được trang bị các khóa chốt có thể đảm bảo chịu được lốc
xoáy.
Vật
liệu làm nhà chuyển từ đất liền ra rất khó. Tuy nhiên ở phía bắc đảo có
một thảm đá vôi san hô có thể lấy làm vữa trét xây dựng nhà. Các nhà
khoa học ước tính khối đá này khoảng 3.000m3. Nếu không đủ có thể khai
thác từ mỏ đá cuội san hô ở bãi đông nam đảo Quang Hòa. Mặt khác, đảo
Hoàng Sa, cũng như tất cả các đảo khác trong quần đảo Hoàng Sa, có nhiều
tảng san hô chết có thể cung cấp lượng vôi đặc cực lớn, trộn cùng với
cát hạt lớn thành vữa để trét xây dựng nhà. Việc vận chuyển ra đảo các
vật liệu như sắt, cát, bêtông... để xây nhà sẽ tiến hành vào mùa biển
lặng.
Cung
cấp nước ngọt là một vấn đề lớn bởi không chỉ cho người dân sử dụng mà
còn cần thiết cho canh tác. Có một vài vị trí khác nhau trong các rạn
san hô vòng, qua nghiên cứu bước đầu, các nhà khoa học phỏng đoán có một
tầng nước ngọt sạch. Sự phong phú về thảm thực vật trên đảo đã tăng
thêm độ ẩm cho đảo để duy trì nguồn nước. Trong các chuyến khảo sát
trước đó, một số giếng nước trong quần đảo Hoàng Sa đã được khoan. Ngay
trên đảo Hoàng Sa cũng có một giếng lớn, thành giếng là một loại đá
không thấm nước, có một cầu thang dẫn xuống để lấy nước. Giếng nước này
khi khảo sát không sử dụng nên bị lá cây phân hủy lấp đầy. Các nhà khoa
học cũng phát hiện một số hang có thể dẫn nước về cung cấp cho khu dân
cư.
Cung
cấp chất đốt cho người dân trên đảo cũng là một vấn đề quan trọng. Theo
tính toán của các nhà khoa học, khi thực hiện quy hoạch đảo Hoàng Sa
phải phát quang bụi rậm và cây cối, các loại gốc thu hồi này bước đầu
cung cấp được nguồn chất đốt trước mắt. Tiếp đó, nếu cần thiết có thể
khai thác một số loại cây có khả năng hồi sinh nhanh ở một số đảo bên
cạnh.
Về
các nguồn thực phẩm bản địa, khảo sát cho thấy trên đảo có bảy, tám
loài cây nhưng không có loài cây dùng làm thực phẩm được. Trái lại,
nguồn thực phẩm từ hải sản rất lớn. Ngư dân từng đến Hoàng Sa khai thác
rùa biển, sau khi đánh bắt họ chất thịt đầy trên thuyền mành của họ. Ngư
dân còn khai thác hải sâm, trai tai tượng và các loài thân mềm. Họ còn
dùng cả câu mành để bắt loài cá trong rạn san hô. Ở quần đảo Hoàng Sa
còn nhiều loài rong chiết xuất được chất thạch màu trắng để sản xuất đồ
uống và nấu canh rất ngon, được người dân các vùng Viễn Đông ưa thích.
Tuy nhiên, để đảm bảo lương thực thực phẩm cho người dân trên đảo cần
phải trồng trọt. Các nhà khoa học lưu ý quần đảo Hoàng Sa rất giàu
phosphat, đây là nguồn phân bón phục vụ việc trồng rau củ và các loại
cây ăn quả như khoai, bắp, dứa, đu đủ và dừa. Đặc biệt dừa là loại cây
cần trồng ở đảo Hoàng Sa và đảo Quang Hòa để tạo thêm cảnh quan đẹp. Để
đáp ứng nhu cầu cư dân quy hoạch trên đảo, cần một diện tích trồng trọt
khoảng 7.000a (1a= 100m2). Vấn đề khó khăn nhất là vận chuyển gạo đảm bảo nhu cầu dự trữ từ mùa này sang mùa khác cho người dân trên đảo.
Sau
cùng về phòng tránh bão, vì quần đảo Hoàng Sa hứng chịu nhiều cơn bão
từ Philippines nên nhà trên đảo cần được xây vững chắc và phải nằm ở vị
trí trũng. Để bảo vệ khu dân cư trên đảo cần trồng một vành đai rừng
phòng hộ rộng khoảng 20m.
Việc
đưa dân định cư ra đảo sau đó được tiến hành nhưng Chiến tranh thế giới
thứ hai xảy ra những năm sau đó khiến kế hoạch này dở dang.
HUỲNH HIẾU (TTCT)
Tìm nơi đáp thủy phi cơ và làm sân bay
Khảo
nghiệm ngày 25-10-1937, hai chiếc thủy phi cơ từ Sài Gòn và Đà Nẵng đã
đáp xuống vùng nước phía nam của đảo Hoàng Sa, trong giữa đầm nơi có các
tàu neo đậu tránh gió, để tiếp nhiên liệu mà không gặp một trở ngại
nào. Ngoài ra, theo thuyền trưởng tàu Kaufman, đầm rộng giữa rạn Hải Sâm
là nơi đáp thủy phi cơ tuyệt vời.
Về
sân bay, chuẩn đô đốc tàu Estiva cuối tháng 2-1937 đặc biệt chú ý đến
mặt bằng trên đảo Hữu Nhật. Theo ông, mặt bằng đảo Hữu Nhật lý tưởng
hơn, mặc dù vị trí dự định cho sân bay trên đảo Hoàng Sa ít phải đầu tư.
(Báo cáo của ông R. Sérène 1953 trong tài liệu lưu trữ tại Viện Hải dương học)
|
____________________
Loạt
bài này được thực hiện với sự cung cấp tư liệu của PGS-TS Võ Sĩ Tuấn -
viện trưởng Viện Hải dương học, và dịch giả Nguyễn Thanh Vân, trưởng
phòng thông tin - thư viện của viện này.
____________________
* Tin bài liên quan:
>> Kỳ 1: Sự thật hải dương học: Hoàng Sa – Việt Nam!
>> Kỳ 2: Phát hiện “cao nguyên đáy biển”
>> Kỳ 3: Mỏ phosphat khổng lồ ở Hoàng Sa
>> Kỳ 4: Nhật ký về chim biển
>> Kỳ 5: Ngọn hải đăng chủ quyền
>> Kỳ 2: Phát hiện “cao nguyên đáy biển”
>> Kỳ 3: Mỏ phosphat khổng lồ ở Hoàng Sa
>> Kỳ 4: Nhật ký về chim biển
>> Kỳ 5: Ngọn hải đăng chủ quyền
0 nhận xét: