1.
Đầu thu năm ngoái, trên đường vô Nam công tác, chúng tôi có ghé vào một
quán nhỏ ven đường. Quán nhỏ vô danh sẽ chẳng có gì đáng nhớ cả, cho
đến khi, tôi ngước nhìn lên và thích thú nhận ra rằng, chúng tôi đang
ngồi dưới bóng râm của một cây thị cổ. Trong khu vườn yên tĩnh, thị trổ
lá vươn cành ôm lấy không gian, chở che cho quán nhỏ. Sau vòm lá biếc,
những quả thị lấp ló xuất hiện, một số đã ngả vàng. Sắc vàng là dấu hiệu
cho biết, thị đã chín rồi, chỉ còn chờ tay người hái xuống thôi. Chắc
không ai nỡ vô tâm trước sắc hương mê hoặc của thị chín. Màu sắc và mùi
hương đặc trưng ấy đã đi qua tuổi thơ của bao thế hệ người Việt nông
thôn, lắng xuống rồi bừng lên thành cổ tích, ca dao, huyền thoại: “Thị
ơi thị, thị rụng bị bà/ Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”. Trên quãng đường
còn lại, tôi miên man nghĩ về những cây cổ thụ ở quê nhà. Đã bao năm
rồi, hình ảnh và số phận của chúng không thôi ám ảnh tôi.
2.
Khi tôi bắt đầu biết khám phá thế giới xung quanh, làng vẫn còn nhiều
cổ thụ. Đó là một tập hợp sống động với nhiều loài cây khác nhau: ngô
đồng, đa, gạo, trôi, bàng, sung, duối, thị, chay, nhãn, vải, mít, bưởi,
đào tiên, hồng, ... Thế hệ chúng tôi lớn lên dưới bóng cổ thụ. Cổ thụ
cho trái chín, cho bóng mát, cho không gian vui chơi và chuyện trò, cho
không gian tưởng tượng và mơ ước, cho các bài học đầu đời và cho muôn
vàn kỉ niệm sâu nặng với quê hương. Khi đã trưởng thành, tôi lại biết
thêm rằng, các loài cổ thụ mà tôi từng gắn bó chỉ là những mảnh vỡ còn
sót lại của một quần thể phong phú đã tồn tại lâu đời trong quá khứ. Quả
thế thật, trước thập niên 1970, làng tôi rợp bóng cổ thụ. Thế giới
khổng lồ ấy là sự đan xen của 3 loại hình cây xanh: các loài cây tâm
linh (mọc ở chùa, đình, đền, miếu – trung tâm của đời sống tín ngưỡng),
các loài cây phòng hộ (mọc ngoài bờ sông, dọc đường làng, ngoài cánh
đồng nhằm chống bão lụt, che mưa nắng) và các loài cây gia dụng (chủ yếu
là các loại cây ăn trái, mọc trong vườn của các hộ gia đình). Trong
điều kiện của một làng ven sông, mưa nắng thất thường, giao thương cách
trở, sự có mặt của cổ thụ cho phép con người duy trì một mối quan hệ hài
hòa với tự nhiên. Ở đó, con người vừa khai thác vừa nương theo tự nhiên
để tồn tại và phát triển. Thế nên, các loài cổ thụ đã trở thành một thứ
tài sản thiêng liêng bất khả xâm phạm, niềm tự hào chung của các thành
viên trong làng.
3. Tuy nhiên, sau các phong trào hay cuộc vận
động diễn ra như cơm bữa ở vùng nông thôn, cổ thụ trong làng dần vắng
bóng. Trong dãy dài danh sách cổ thụ của làng, nhóm cây tâm linh bị đốn
hạ đầu tiên, sau đó, đến nhóm cây phòng hộ. Tuy diễn ra chậm hơn một
chút, các loài cổ thụ trong vườn nhà cũng lần lượt ra đi. Cây thị mà tôi
tình cờ gặp trên đường đi công tác chỉ càng gợi lên một hoài niệm xa
xăm: cây thị cuối cùng trong làng, chắc cũng cổ kính và lực lưỡng như
cây thị ấy, đã bị đốn cách đây 10 năm. Người ta chặt cổ thụ để lấy gỗ
bán, làm củi đun, để “thông quang” đường xá, hoặc chẳng để làm gì cả. Đã
có chủ trương thì cứ chặt, vậy thôi. Bây giờ, làng tôi vẫn rợp bóng cây
xanh nhưng đa phần trong số đó là cây còi, cây tạp. Cây nào thì cũng là
cây thôi, vì cây nào mà không thu vào các bô nic và thải ra ôxy cho con
người? Nhưng đó chỉ là chức năng tối thiểu của mọi loài cây trong thế
giới thảo mộc. Cổ thụ thì không thế: ngoài chức năng tối thiểu, nó còn
đảm nhận nhiều chức năng đặc biệt, vừa hữu hình vừa vô hình, vừa trước
mắt vừa lâu dài mà chỉ riêng mình cổ thụ mới đủ khả năng.
4. Bởi
vậy, khi một cây cổ thụ ngã xuống, không nên hiểu một cách giản đơn là
làng đã mất thêm một bóng cây xanh. Cổ thụ ra đi còn mang theo một cái
gì hơn thế: một quan niệm sống, một lối hành xử đã được chắt lọc, truyền
thụ qua đằng đẵng thời gian. Nhiều lúc, tôi tự hỏi mình: rốt cục, người
xưa kì công trồng cây để làm gì nhỉ? Dĩ nhiên rồi, con người trồng cây
trước hết là để thích nghi với tự nhiên vì nếu thiếu cây thì làm sao con
người sống nổi. Điều đó thì ai cũng biết. Nhưng cây xanh còn là phương
tiện để con người kí thác vào đó những thông điệp, những lẽ sống ở đời.
Thử nghĩ mà xem, nếu muốn con cháu không quên đạo lí của tiền nhân, còn
cách nào hợp lí hơn là để lại cho chúng một bóng cây cổ thụ. Trong môi
trường nông thôn cổ truyền, khó có thể tìm thấy một phương tiện nào hữu
hiệu hơn cổ thụ trong khả năng truyền tải những ngụ ngôn tinh tế, thâm
trầm. Vẻ uy nghi, lừng lững, cổ kính và phong trần của cổ thụ toát lên
những đức hạnh, phẩm chất mà con người ở thời đại nào cũng cần đến:
(i) Sự ngay thẳng, đàng hoàng: cổ thụ bao giờ cũng mọc thẳng giữa thanh thiên, bạch nhật;
(ii) Sự kiên trì, nhẫn nại: muốn trở nên cổ thụ, bất cứ loài cây nào cũng phải trải qua vô số thử thách, cam go;
(iii) Sự bao dung, độ lượng: cổ thụ sẵn sàng bảo vệ, chở che cho bất kì sinh thể nào tồn tại dưới tán rợp của nó;
(iv)
Sự khiêm nhường, từ tốn: kiếp người vốn bé nhỏ và ngắn ngủi nên con
người phải dựa vào cổ thụ để tăng thêm khả năng đề kháng trước tự nhiên
thất thường. Vậy nên, thay vì ảo tưởng về năng lực của mình, hãy khiêm
nhường, từ tốn để học hỏi, điều chỉnh và thích nghi.
Khi con người
triệt phá cổ thụ, họ cũng gián tiếp từ chối những bài học ấy để đi theo
một lối sống khác - một lối sống thường được biện minh bằng vô số mỹ
từ: mới, tiến bộ, hạnh phúc, phồn vinh... Nhưng nếu quan sát bản thân
mình và những người xung quanh, tôi chưa thấy những triết lí mới, những
giá trị mới ở đâu cả. Chỉ thấy rằng, dưới khoảng trống mênh mông mà cổ
thụ để lại, chúng ta đang ngày càng trở nên hung hăng hơn, ồn ào hơn,
hời hợt hơn, luẩn quẩn hơn và mong manh hơn trước vô vàn áp lực của cuộc
sống.
Mùa thu này, trong nắng hanh hao của tiết Vu lan, tôi có
một vài dự định ấp ủ. Mùa xuân tới, tôi sẽ bàn với thanh niên làng trồng
thêm cây mới để chuẩn bị những bóng cổ thụ cho tương lai.
Đặng Hoàng Giang (Diễn Ngôn)
0 nhận xét: